Bức tranh cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni và con đường tu chánh đạo

Bài viết về bức tranh cuộc đời đức phật Thích Ca Mâu Ni với nhiều thông tin đã bị “thần thoại hóa”. Tuy nhiên, để thấy được sự thật, độc giả nên phân tích và bỏ qua những thông tin có tính phép màu, thần thoại.

Mục lục nội dung hiện mục lục

Phật Thích Ca Mâu Ni

Phật Thích Ca Mâu Ni là ai?

Thích Ca Mâu Ni Phật là một nhân vật có thật. Ông là một triết gia, học giả, người sáng lập ra Pháp tu giác ngộ (tu Phật), sống ở Ấn Độ cổ đại khoảng giữa thế kỷ thứ VI và IV trước Công Nguyên. Tức là, tính từ năm thứ 0 dương lịch, trừ đi khoảng 400-500 năm, đó chính là thời của Phật Thích Ca tại thế.

Thích Ca Mâu Ni là gì? Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là “Trí giả đến từ Thích-ca”. Thích Ca là tên tiểu vương quốc Thích-ca (śākya), một đất nước nhỏ nằm ở vùng biên giới Ấn Độ – Nepal ngày nay, có kinh đô là Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu).

Tên thật của Phật Thích Ca Mâu Ni là Siddhārtha Gautama (nghĩa là “người thành đạt nguyện vọng” ). Phiên âm là Tất-đạt-đa Cồ-đàm hay Sĩ-Đạt-Ta Cồ-đàm, hoặc …Cù-đàm. Là một Hoàng Tử được chọn làm người kế nhiệm ngôi vua trong tương lai.

Cha ông là nhà vua Tịnh-phạn Cồ-đàm (Śuddhodana Gautama – “người trồng lúa thuần tịnh”), còn được gọi là Tịnh Phạn Vương, người trị vì tại thành Kapilavastu của đất nước śākya nhỏ bé. Mẹ ông là hoàng hậu Mahāmāyā Gotamī (Ma-Da), người tiểu vương quốc Koli láng giềng.

Tại sao đời là bể khổ? Vậy những người sướng thì sao?

Đời người kỳ thực không có ai là không có khổ. Chẳng vậy mà có câu trích dẫn tên phim “Người giàu cũng khóc”. Cái ăn uống, vui chơi, dục lạc, phè phỡn ở đời thực chất không phải là sung sướng đến mức không khổ. Chính tất cả những thứ đó lại là nỗi khổ của người sở hữu, hoặc không được sở hữu chúng. Thậm chí khổ đến cùng cực. Ta có thể lý giải như sau:

#1. Một người có nhan sắc có khổ không?

Người có nhan sắc được mọi người yêu thích, chiều chuộng, giúp đỡ. Nhưng cũng là đối tượng bị âm mưu hãm hại, cưỡng đoạt. Tuy nhiên đó chưa phải là khổ. Mà nỗi khổ của người có nhan sắc chính là sự tàn phai theo thời gian, do diễn biến cuộc sống. Khi có nhan sắc, điều con người lo sợ chính là đánh mất nó. Và nỗi khổ là khi nó thực sự xảy ra. Không thể tránh được.

#2. Một người nhiều tiền có khổ không?

Người có tiền nhiều để làm gì? Khi mà nhiều thứ đánh mất cũng vì tiền. Và có những thứ không thể mua được bằng tiền, thậm chí nhiều tiền. Đó là những giá trị phi vật chất. Đồng tiền không thể mua được sự thông minh cho bạn. Cũng không thể khiến một người đang lợi dụng bạn trở thành chân thành với bạn. Không thể mua lại tuổi trẻ, sức khỏe, mạng sống. Cuộc đua với đồng tiền khiến con người hao tổn tâm trí. Mặc dù có thể chưa đến mức cực khổ, những cũng là nỗi khổ. Và còn nhiều nỗi khổ khác nữa.

#3. Một người có sức khỏe có khổ không?

Sức khỏe là thứ quan trọng nhất của một đời người bình thường. Nó là nền tảng để thực hiện mọi việc. Tuy nhiên dù khỏe mạnh, dẻo dai đến mấy thì vẫn có một nỗi khổ vì sức khỏe. Khi thời gian trôi đi, chứng kiến sự yếu đi của bản thân, chứng kiến bệnh tật kéo đến. Có ai mà không thở dài.

Tất cả mọi người chung quy đều phải khổ vì sinh (cuộc sống)-lão (sự già đi)-bệnh (bệnh tật, tai ương)-tử (chết). Ai cũng có những lúc bỏ qua tất cả và chỉ còn lo lắng đến sự già đi, sức khỏe, và cái chết cận kề.

Có những người khá bản lĩnh, họ không sợ đau, già, hay cái chết. Nhưng vẫn sợ sẽ quên đi quá khứ. Chết đi họ vẫn chịu nỗi khổ ở kiếp sau. Thậm chí những tu sĩ chưa đắc đạo, khi sắp chết cũng bán tín bán nghi về sự tồn tại của thế giới bên kia. Đến nỗi họ lo sợ và mất đi 1 nửa đức tin.

Sự lo lắng, hoài niệm, day dứt là những điều mà chẳng mấy ai thoát được khi nghĩ về việc chấm dứt cõi đời này.

Hành trình giác ngộ của Phật Thích Ca Mâu Ni

Sự ra đời của Hoàng tử Tất-đạt-đa

Trở lại câu chuyện về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khai sinh có tên là Tất-đạt-đa, sinh ra tại khu vườn Lumbinī. Là người có đầy đủ 32 tướng tốt. Khi Tất-đạt-đa được sinh ra, vua cha gọi đến 5 nhà tiên tri thuộc dòng tu Bà la Môn. Các vị này cho rằng sau này Tất-đạt-đa sẽ trở thành một nhà vua vĩ đại (Chuyển Luân Thánh Vương) hoặc là một thánh nhân xuất thế, một bậc giác ngộ tối thượng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong giới tu (Phật). Trong đó, lời tiên tri về việc trở thành một đại đế vĩ đại được nhà vua kỳ vọng. Ông không muốn con trai trở thành tu sĩ. Đó là lý do về sau, nhà vua luôn tạo ra một thế giới màu hồng quanh thái tử Tất-đạt-đa. Tránh để ông ấy sự khổ đau của thế giới.

Ghi chú: Có những yếu tố do kể lại chuyền miệng, có thể đã thêm thắt để thần thoại hóa câu chuyện này. Ví dụ 32 tướng tốt, hoặc những lời tiên tri.

Tất-đạt-đa được chăm sóc nhờ người dì ruột, cũng là vợ của vua cha

Tất-đạt-đa được tiên tri sẽ trở thành một bậc chánh giác, trở thành Phật
Tranh kể lại chuyện Tất-đạt-đa được tiên tri sẽ trở thành một bậc chánh giác, trở thành Phật

Bảy ngày sau khi sinh ra Tất-đạt-đa, người mẹ, hoàng hậu Maya qua đời. Ông được dì ruột tên là Mahāprajāpatī Gotamī, cũng là vợ của vua cha, nhận nuôi. Con ruột của bà thì giao lại cho vú nuôi chăm sóc. Sau này bà Mahāprajāpatī Gotamī xin Phật Thích Ca làm đệ tử nữ đầu tiên (tỳ khưu ni) rồi đắc quả A-la-hán.

Mẹ của mọi vị Phật đều qua đời vào 7 ngày sau khi sinh?

Kinh Phật có viết rằng mẹ của mọi vị Phật đều sẽ qua đời vào 7 ngày sau khi sinh (bởi phước báu quá lớn của việc đản sinh ra Phật sẽ giúp người mẹ xả bỏ thân xác yếu ớt và thọ mạng ngắn ngủi của con người để tái sinh làm thần trên cõi Trời). Sau khi qua đời, bà Maya đã tái sinh làm 1 vị thần trên cõi trời Đâu suất có tên là Māyādevaputta. Sau này khi thành đạo, Phật Thích Ca đã dùng thần lực để thuyết Vi diệu pháp cho vị thần (tiền kiếp là mẹ mình) trên cõi trời này để tỏ lòng biết ơn thân mẫu.

Ghi chú: Đồn đoán về việc mẹ của một vị giác ngộ sẽ qua đời vào 7 ngày sau khi sinh cũng là do người đời truyền lại sau đó.

Kinh sách viết về chuyện người mẹ của Phật

Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm thân mẫu Phật của bà Maya như sau: cách đây 91 đại kiếp Trái đất, đã có 1 vị Phật tên là Vipassī (Phật Tỳ Bà Thi) ra đời. Có một công nương (con một vị đại thần trong triều đình) đã cúng dường Phật Tỳ Bà Thi với lòng chí thành và ước nguyện rằng trong tương lai, cô sẽ được làm mẹ của 1 vị Phật. Phật Tỳ Bà Thi đã thọ ký cho cô sẽ được như nguyện. Công nương đó chính là tiền kiếp của hoàng hậu Maya.

Kinh sách viết về người dì đã nuôi dưỡng Phật Thích Ca lúc nhỏ

Về bà Gotamī, Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm dưỡng mẫu Phật của bà như sau: cách đây 100.000 đại kiếp Trái đất, đã có Phật Padumuttara truyền đạo trên thế gian. Có một công chúa đã cúng dường Phật với lòng chí thành, một hôm khi đang nghe Phật Liên Hoa thuyết pháp, công chúa nhận thấy có một Tỳ kheo ni thật đáng tôn quý, đứng đầu hội chúng Tỳ kheo ni, và là người nữ đệ tử đạt giác ngộ sớm nhất. Bà liền lập nguyện rằng, trong tương lai, do công đức tu tập, bà sẽ được như vị Tỳ kheo ni ấy. Lời nguyện của bà đã được Đức Phật Padumuttara ấn chứng là sẽ thành tựu trong thời kỳ của Đức Phật Gotama (Thích Ca). Công chúa đó chính là tiền kiếp của bà Gotamī

Theo như kinh này, thì tất cả những vị Phật tự phong, hoặc được phong bởi các quốc gia, tổ chức tôn giáo đều không phải Phật. Trừ phi mẹ của những vị này mất sau khi sinh ra họ 7 ngày thì còn có 1 chút khả năng. Còn việc xã hội có nhiều trường hợp được phong Thánh, phong Phật là có rất nhiều lý do phía sau. Điều mà tu sĩ chúng ta cũng như những con chiên thiện lành cần phải suy ngẫm, cẩn trọng, dè chừng.

Những cản trở con đường đi tu của thái tử Tất-đạt-đa

Do lời tiên tri rằng Tất-đạt-đa có khả năng trở thành một tu sĩ. Nên Tịnh Phạn Vương muốn hướng con nối nghiệp mình trở thành một vị vua. Ông đã cho nhiều người giỏi dạy con mình. Cho con hưởng đầy đủ vinh hoa phú quý, dục lạc. Tránh con thấy những cảnh khổ bên ngoài.

Năm lên 16 tuổi, Tất-đạt-đa kết hôn với công chúa Yaśodharā (Da-du-đà-la) của thị tộc Koli. Tộc Koli chính là nguồn gốc của mẹ Tất-đạt-đa.

Duyên khởi của Phật Thích Ca được cho là bắt đầu từ 100.000 kiếp Trái Đất
"<yoastmark

Theo Kinh Bản Sinh (Jataka), cách đây 4 A tăng kỳ và 100.000 kiếp Trái Đất, tiền thân của Tất-đạt-đa là tu sĩ Sumedha (Thiện Huệ). Khi đó có đức Phật tại thế là Dīpankara (Phật Nhiên Đăng). Sumedha nhìn thấy Phật Dīpankara tận mắt, liền phát nguyện sẽ cố gắng tu học cho đến khi được hoàn toàn giác ngộ như Phật.

Người vợ của Tất-đạt-đa đã nguyện theo ông muôn kiếp cho đến khi thành Phật

Sumedha xin được hoa sen của 1 cô gái tên là Sumita, chàng chí thành tung năm hoa sen của mình lên không trung để cúng dường Phật. Sumita cũng trao cho chàng 2 bông hoa sen nhờ dâng cúng dùm, với tâm nguyện rằng đời đời kiếp kiếp luân hồi về sau sẽ luôn là vợ của Sumedha, trợ giúp chàng trong muôn kiếp luân hồi cho tới khi chàng thành Phật.

Sumita và Sumedha được Nhiên Đăng cổ Phật thọ ký tâm nguyện

Sau đó, Sumedha còn nằm sát đất, lấy thân mình để giúp Phật bước qua vũng lầy. Đức Phật Dīpankara hoan hỉ thọ ký rằng 2 người sẽ đạt tâm nguyện: Sumedha sẽ thành Phật hiệu là Sākyamuni (Thích-Ca Mâu-Ni) trong đời Hiền kiếp (Bhadra kalpa), còn cô gái Sumita sẽ luôn là vợ của chàng trong các kiếp luân hồi, cho tới khi chàng thành Phật.

Dục lạc không thể ngăn con đường tu hành của Tất-đạt-đa

Do nhân duyên không thể tránh khỏi, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một vị tu sĩ, thái tử Tất-Đạt-Đa phát tâm tu hành.

Năm 29 tuổi, sau khi người vợ Da-du-đà-la hạ sinh một bé trai – được đặt tên là La-hầu-la (Rāhula) (nghĩa là Chướng ngại). Tất-đạt-đa quyết định từ bỏ cuộc sống xa hoa, lìa cung điện bất chấp nỗ lực ngăn cản của cha mình.

Trong đêm, Tất-đạt-đa gọi người nô bộc trung thành là Sa-nặc (Channa) lấy con ngựa Kiền Trắc (Kantaka) rồi bỏ đi. Khi tới bờ sông Anomà, Thái tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo râu, cắt tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Channa, lệnh cho Channa trở về. Sử sách Phật giáo xác định rằng đó là rạng ngày mồng 8 tháng 2 năm 595 trước Công Nguyên.

Con đường tu hành của Phật Thích Ca Mâu Ni

Tất- đạt-đa đã thử tu khổ hạnh cùng nhiều nhóm tu sĩ khác nhau. Ông tìm mọi đạo sư của nhiều giáo phái với một quyết tâm tìm cách diệt khổ. Theo truyền thống của các vương quốc vùng Ấn Độ thời đó, con đường tu là phải khổ hạnh thì mới đắc đạo.

Khi đến với A-la-la Ca-lam (ārāda kālāma), Tất-đạt-đa đạt mức Thiền Vô sở hữu xứ (ākiṃcanyāyatana);

Tất-đạt-đa tu khổ hạnh cùng 5 anh em Kiều Trần Như
Tất-đạt-đa tu khổ hạnh cùng 5 anh em Kiều Trần Như

Khi đến với Ưu-đà-la La-ma tử (rudraka rāmaputra), Tất-đạt-đa đạt mức Thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ (naivasaṃjñā-nāsaṃñāyatana). Đây là cấp độ, trạng thái cao nhất của thiền định lúc đó. Nhưng ông vẫn chưa giải được vấn đề diệt khổ và những thắc mắc của mình. Ông quyết tâm tự đi tìm cách khác. Có 5 vị tì kheo Kiều Trần Như (Koṇḍañña) đi cùng ông.

Tất-đạt-đa nhận ra sai lầm trong pháp tu khổ hạnh

Suốt thời gian 6 năm tu khổ hạnh, có những lúc suýt chết. Khiến Tất-đạt-đa nhận ra đó không phải là phép tu giác ngộ. Nếu chết, việc tu sẽ không thể đạt kết quả. Câu trả lời về cuộc đời sẽ không có được. Ông bắt đầu ăn uống trở lại bình thường và tìm phương pháp khác khiến 5 vị tu sĩ kia thất vọng rời xa ông.

Tuy nhiên khổ hạnh cũng là một phần trong quá trình tu ban đầu của Thích Ca. Trong giai đoạn này có nhiều chuyển biến về thân và tâm. Thích Ca cũng đạt được những thành tựu ban đầu.

Bát sữa bò nấu chín giúp Tất-đạt-đa phục hồi sức khỏe

Sau khi từ bỏ lối tu khổ hạnh. Tất-đạt-đa ăn uống bình thường trở lại. Ông đến Giác Thành. Tại đây, ông thường ra bờ sông Nairanjana ngồi thiền trên bãi cát. Một ngày, khi ông đang Thiền, có hai cô bé chăn bò là Nanda và Bala đang dắt bò xuống sông tắm thì thấy Tất-đạt-đa. Họ vắt sữa bò, nấu chín rồi mời ông. Tất-đạt-đa ăn xong cảm thấy thân thể khoẻ mạnh.

49 ngày thiền định dưới gốc cây Ajaapala

Đến ngày 49 thiền định dưới gốc cây Ajaapala (cách cây Bồ đề khoảng 100m về hướng Đông). Khi ông sắp đi khất thực, thì có hai chị em Sujata mang cháo đến cúng thần gốc cây. Họ liền đặt bát cháo mời Tất-đạt-đa. Khi ăn xong bát cháo, Tất-đạt-đa thấy rất khỏe mạnh nên không đi khất thực mà xuống sông tắm. Lúc này ông thấy tinh thần phấn chấn lạ thường, cảm nhận đã sắp thành công.

Sau đó, ông lên bờ và đến gốc Bồ Đề và nguyện nhập định cho đến khi tìm ra nguyên nhân và cơ chế của sự Khổ. Nhờ có cậu bé Sotthiya Svastika gánh cỏ đi ngang qua, ông xin được một mớ cỏ ngũ sắc dùng làm tọa cụ và bồ đoàn để ngồi kiết già trong tư thế tốt nhất.

Tranh đính đá Phật Thích Ca Mâu Ni LV047 Lavender 50x65 cm
Tranh đính đá Phật Thích Ca Mâu Ni LV047 Lavender 50×65 cm

Đắc đạo trở thành Phật Thích Ca

Đêm ấy, Tất-đạt-đa nhập thiền. Ông đạt tới Diệt-Thọ-Tưởng định. Tâm ma bắt đầu quấy nhiễu bằng mọi cách, thậm chí xuất hiện hình ảnh 3 cô gái lõa thể quyến rũ nhưng ông đều chiến thắng. Sau đó, Tất-đạt-đa tiếp-tục nhập Diệt-Thọ-Tưởng định và bắt đầu chứng đắc các đạo quả:

  1. Tận diệt các vi tế phiền não (Kammavasa) còn ẩn náu sâu trong tâm.Đó là thứ làm nghiệp nhân cho sanh tử luân hồi (Samsara). Ðến canh một đêm đó, ông chứng Túc Mạng Minh (Pubbe-nivasanussati-nana), biết rõ tất cả các tiền kiếp của ông (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết thế nào, rồi tái sinh thế nào…)
  2. Tận diệt các vi tế vô minh (Avidyasava).Ðến canh ba, ông chứng Thiên Nhãn Minh (Cutupapata-nana). Từ đó biết rõ tất cả sự biến chuyển của vạn vật qua các giai đoạn thành, trụ, hoại, không; và biết rõ tất cả chúng sanh (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết cách nào, rồi tái sinh thế nào…). Ông biết rõ tất cả nhân duyên nghiệp báo của chúng sinh, từ đó suy ra luật Nhân Quả và Luân Hồi.
  3. Tìm ra phương cách giúp chúng sinh chấm dứt phiền não và vô minh, đạt đến giác ngộ hoàn toàn, thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.Ðến canh năm, ông chứng Lậu Tận Minh (Asavakkhaya-nana): Do đã biết rõ tất cả các tiền kiếp của chính bản thân mình và của mỗi chúng sinh, nên ông nhận thấy rõ ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc chân thật vĩnh cửu và làm thế nào để đạt được nó. Ông đã tìm ra Tứ Diệu Ðế (Khổ, Tập, Diệt, Ðạo).

Theo sử Phật giáo ghi chép, đó là ngày mùng 8 tháng chạp âm lịch năm Nhâm Thân (đầu năm 589 trước công nguyên). Ở tuổi 35, Tất-đạt-đa đã đạt tới giác ngộ, trở thành Phật toàn giác, là bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (anuttara samma sambodhi), là đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.

Thập hiệu (10 tên hiệu) của Phật Thích Ca Mâu Ni:

  1. Như Lai (tathāgata): Nghĩa là “Người đã đến như thế” hoặc “Người đã đến từ cõi Chân như”; tuệ giác của Đức Phật như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
  2. Ứng Cúng (arahant): Dịch nghĩa là A La Hán, là “Người đáng được cúng dường”, đáng được tôn kính.
  3. Chính Biến Tri­ (samyaksaṃbuddha): Dịch theo âm là Tam-miệu-tam-phật-đà, là “Người hiểu biết đúng tất cả các pháp”.
  4. Minh Hạnh Túc (vidyācaraṇasaṃpanna): Là “Người có đủ trí huệ và đức hạnh”, tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
  5. Thiện Thệ (sugata): Nghĩa là “Người đã đi một cách tốt đẹp”
  6. Thế Gian Giải (lokavid): Nghĩa là “Người đã thấu hiểu thế giới”
  7. Vô Thượng sĩ (anuttarapuruṣa): Là “bậc tu hành tối cao, không ai vượt qua”
  8. Điều Ngự Trượng Phu (puruṣadamyasārathi): Có nghĩa là “Người đã chế ngự được bản ngã và nhân loại”, có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.
  9. Thiên Nhân Sư (devamanuṣyānāṃ śāstṛ): Tức là “Bậc thầy của cõi người và cõi trời”
  10. Phật Thế Tôn (buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān): Đây là “Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính”

Kinh nghiệm tu giác ngộ của Phật Thích Ca Mâu Ni

Để giác ngộ, cần tự thực hành thiền và cảm nhận

Phật Thích Ca biết rằng kinh nghiệm giác ngộ của mình không thể dùng ngôn từ hay bất cứ một cách nào khác để truyền đạt, cũng như ông thấy con người đã bị áp đảo bởi vô minh, tham lam và thù hận nên họ rất khó có thể nhận ra “con đường giác ngộ”, vốn rất sâu sắc và khó nắm bắt. Đó là sự trải nghiệm khi tu thiền, con người không thể có cách nào khác để đạt được giác ngộ. Những lý thuyết chỉ có thể dẫn dắt cho người hành thiền. Không thể chỉ hiểu lý thuyết mà tu thành chính quả. Không ai có thể giúp người khác đắc đạo bằng sức mạnh. Chỉ có thể chỉ dẫn để mọi người tự thực hành.

Phật Thích Ca nghĩ rằng: “Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi lý luận, rất tế nhị, chỉ có bậc hiền thánh mới thấu hiểu. Nếu Như Lai truyền dạy Giáo Pháp ấy thì kẻ khác sẽ không hiểu được. Thật hoài công! Người còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, không thấy được Giáo Pháp, vì bị tham ái bao phủ như đám mây đen kịch. Giáo Pháp đi ngược dòng đời, sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và rất tế nhị“.

Đức Phật Thích Ca bắt đầu con đường hoằng Pháp

Nên ông tiếp tục yên lặng ngồi quán chiếu tâm chúng sinh dưới gốc cây Bồ-đề một thời gian. Sau đó, có một vị Phạm Thiên là Sahampati đã thỉnh cầu Đức Phật hoằng dương Chánh Pháp (trong thời xa xưa, tiền kiếp của vị Phạm Thiên này là bạn của Jotipala – tiền kiếp của Phật Thích Ca vào đời Phật Ca Diếp). Với lòng thương yêu chúng sinh, ông chấm dứt sự yên lặng và quyết định chuyển Pháp luân, dựa vào căn cơ của chúng sinh để thuyết Pháp cứu độ. Từ đó ông có danh hiệu Thích-ca Mâu-ni — “Trí giả của dòng dõi Thích-ca”.

Theo Phật, con đường Trung đạo mới là cách tu có kết quả

Phật Thích Ca đề xướng con đường Trung đạo, một con đường tu mới. Cùng là sự bác bỏ đối với hai thái cực khác nhau của các học thuyết của Ấn Độ thời đó.
Hai thái cực Phật dạy người tu hành cần tránh:

“ Này các tỳ khưu, đây là hai cực đoan mà bậc xuất gia không nên thực hành: Đây là sự say đắm về dục lạc trong các dục, kém cỏi, thô thiển, tầm thường, không cao thượng, không đem lại lợi ích, và đây là sự gắn bó với việc hành hạ bản thân, đau khổ, không cao thượng, không đem lại lợi ích.

Này các tỳ khưu, sau khi không tiếp cận cả hai cực đoan ấy, lối thực hành trung hòa đã được đức Như lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn.

Quan niệm về Niết Bàn của Phật

Này các tỳ khưu, lối thực hành trung hòa ấy đã được đức Như lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn là thế nào? Đó chính là Thánh Đạo Tám Chi Phần tức là sự hiểu biết chân chánh, suy nghĩ chân chánh, nói lời chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, nuôi mạng chân chánh, tinh tấn chân chánh, ghi nhớ chân chánh, định tâm chân chánh…

Phật Thích Ca Mâu Ni thành lập tăng đoàn và truyền dạy phương pháp tu

Sau khi giác ngộ hoàn toàn. Ông bắt đầu giảng pháp bằng cách trình bày con đường dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của mình, ông đã giảng Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Vô ngã, Vô thường, Luân hồi, Duyên khởi, quy luật Nhân quả (Nghiệp) và nhiều bài pháp khác mở rộng phù hợp với căn cơ của nhiều người.

Tại vườn Lộc Uyển ở Sarnath gần Ba-la-nại (Benares hay còn gọi là Varanasi), ông bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là “Chuyển Pháp luân”. Ông đi nhiều nơi, nhiều vùng miền ở lục địa Ấn Độ, giảng giải giáo pháp và điều này diễn ra liên tục từ năm này qua năm khác. Cuộc đời Phật Thích Ca trải qua 45 năm truyền dạy kiến thức như một bậc thầy vĩ đại.

Tất-đạt-đa đã dần dần gây dựng được một đội ngũ đệ tử lớn gồm 4 thành phần: tỳ-kheo (nam tu sĩ), tỳ-kheo-ni (nữ tu sĩ), ưu-bà-tắc (nam cư sĩ), ưu-bà-di (nữ cư sĩ).

(Lưu ý: Phật Thích Ca thành lập tăng đoàn (nhóm tì kheo) chứ không thành lập Phật Giáo. Và ông không khởi xướng hay đồng ý việc thờ cúng bất kỳ một vị Thánh Thần hay Phật nào).

Quan niệm của Phật về chân lý và Pháp tu

Tuy dành hầu hết phần đời còn lại để giảng dạy về phương pháp tu và nguyên lý vận hành của vũ trụ. Nhưng Phật Thích Ca lại tuyên bố “Đối với chân lý, Như Lai chưa từng nói lời nào”. Ý là: Những gì Như Lai giác ngộ vốn đã là chân lý tồn tại từ trước trong khắp các cõi thế gian và vũ trụ. Dù có Phật tại thế hay không, dù chúng sinh có biết và tin hay không thì chân lý đó vẫn tồn tại và chi phối vạn vật. Chân lý đó rất vi diệu, không thể dùng lời nói để diễn tả mà phải tự mình chứng đắc, những lời dạy của Như Lai chỉ là phương tiện để giúp người tu hành đạt tới chân lý đó mà thôi.

Quan niệm của Phật Thích Ca về Thần giới

Nhiều người theo Ấn Độ giáo cho rằng Tất-đạt-đa là hóa thân thứ 9 của thần Vishnu. Tuy nhiên nhiều lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni vốn đi ngược lại giáo điều tôn giáo của Ấn Độ giáo. Điển hình là Phật phủ nhận quyền năng của kinh Vệ Đà (Vedas). Và phủ nhận sự tồn tại của Ngã, linh hồn trường tồn, bất biến (Atman).

Phật cũng phủ nhận địa vị tối cao của Phạm Thiên (Bhrama) trong Ấn Độ giáo. Phật nói rằng các vị thần cũng chỉ là một chúng sinh trong tam giới mà thôi, họ không phải toàn năng và cũng không bất tử. Do vậy, chi tiết này có lẽ là do Ấn Độ giáo hư cấu ra để thuyết phục những tín đồ Phật giáo chuyển sang Ấn Độ giáo. Cũng như rất nhiều tôn giáo, hoặc đảng phái lợi dụng Phật làm hình ảnh vì mục đích riêng.

Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn

Phật Thích Ca nhập Niết Bàn

Năm 80 tuổi, Phật Thích Ca Mâu Ni qua đời. Trước khi qua đời, ông cho các tỳ kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp những điểm còn chưa sáng tỏ. Tuy nhiên các vị này đã im lặng. Lời dạy cuối cùng của ông là: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hãy tinh tấn tu học (để đạt giác ngộ và giải thoát khổ)!”
Theo các Phật tử, ông đã nhập Niết-bàn thông qua các mức thiền định, một trạng thái giải thoát hoàn toàn khổ đau của cuộc sống. Theo truyền thuyết Pali thì Phật Thích Ca mất vào ngày rằm tháng tư, còn văn bản Phạn ngữ chép ngày mất của ông là ngày rằm tháng 11.

Phật Thích Ca nhập Niết Bàn

Tiếng Phạn là gì?

Vùng đất sinh ra Đức Phật Thích Ca sử dụng ngôn ngữ là tiếng Phạn (hay Phạm), là cách dịch của Trung Quốc từ Saṃskṛtā vāk (hoặc saṃskṛtam). Đây là một ngôn ngữ cổ đại của Ấn Độ, vẫn còn được giảng dạy như một ngôn ngữ thứ hai ở Ấn Độ. Saṃskṛta có nghĩa là “được làm đầy đủ”. Với quan niệm, cái được làm đầy đủ, trọn vẹn là tốt nên saṃskṛta cũng được hiểu là “toàn diện, hoàn hảo”.

Văn tự tiếng Phạn
Văn tự tiếng Phạn

Ở các quốc gia khác, tiếng Phạn là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo. Mặc dù điều này dường như không cần thiết. Bởi việc phát âm thường không chính xác. Và người tu Phật chính đạo chủ yếu dựa vào Thiền liên tục và thường xuyên, giống như Phật Thích Ca từng làm. Ngài không tế lễ, không tụng kinh, cũng không thờ thần hay Phật khác. Và ngài cũng không dạy ai tu bằng cách đó. Ngày nay cũng nhiều cư sĩ tự bỏ đời đi tu ẩn dật, nhưng họ hoàn toàn không bao giờ đến chùa, không thờ cúng Phật. Bởi những điều đó nằm trong sự “Vô minh” mà Phật Thích Ca đã dạy tu sĩ cần thoát ra.

Độ chính xác của Kinh Phật ngày nay?

Kinh Phật ngày nay ở các quốc gia cũng có tam sao thất bản. Có thể do lỗi dịch, lỗi do người biên tập lại theo ý hiểu của họ. Thậm chí có những thay đổi “có mục đích” về chính trị khác.

Chi tiết về cuộc đời, những lời dạy và các giới luật của Phật Thích Ca được những học trò ghi nhớ và tổng hợp lại sau khi Siddhārtha Gautama qua đời. Hàng loạt những bản kinh ghi lại lời dạy của ông được lưu giữ qua truyền miệng và được viết thành sách 400 năm sau đó. Do vậy, ngay từ những bản kinh đầu tiên đã có nguy cơ bị thiếu chính xác. Và kinh Phật là tài liệu do đời sau viết, không phải do Phật Thích Ca viết.

Tuy nhiên, những người chân tu vẫn có thể hiểu được phương pháp tu của Phật Thích Ca mà không cần đọc kinh quá nhiều. Chỉ cần hiểu được cách tu mà Phật dạy. Chúng sanh không chỉ gồm con người, và kể cả con người, không ai có thể dung nạp được hết kinh sách. Tuy nhiên, Phật Thích Ca không hề giới hạn đối tượng có thể tu.

Các vị Phật trong quá khứ

Tam Thế Phật

Trong những kiếp gần đây của Trái Đất có 7 vị Phật (nguyên thủy Thất Phật). Trong quá khứ có thể có hàng ngàn vị Phật, vì vòng quay Vũ Trụ với thời gian vô lượng, không thể xác định hết. Tuy nhiên đại diện thường được nhắc tới cho các vị Phật quá khứ là Nhiên Đăng Cổ Phật (Dipankara). Đại diện thường được nhắc tới cho các vị Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đại diện thường được nhắc tới cho các vị Phật vị lai là Di Lặc Tôn Phật (vị lai có ý nghĩa bề mặt là “chưa đến”, tức là thuộc về “tương lai”). Đó là Tam Thế Phật, chữ Thế là chỉ Thời Thế – Thế Gian:

  • Phật quá khứ: Đại diện là hình ảnh Phật Nhiên Đăng
  • Phật hiện tại: Đại diện là Phật Thích Ca
  • Phật tương lai: Đại diện là Phật Di Lặc

Nguyên Thủy Thất Phật

Trong kinh Phật có nói đến 7 vị Phật trong quá khứ mà người cuối cùng là Phật Thích Ca. Họ được gọi là Nguyên Thủy Thất Phật (bảy vị Phật nguyên thủy). Sáu vị Phật trước Phật Thích Ca là:

  • Thuộc Trang Nghiêm kiếp:
    • Phật Tỳ Bà Thi (hay Phật Bỳ Lư Thi, Vipasyin)
    • Phật Thi Khí (Sikhin)
    • Phật Tỳ Xá Phù (hay Phật Tỳ Xá Bà, Visvabhu)
  • Thuộc Hiền kiếp:
    • Phật Câu Lưu Tôn (hay Phật Câu Lâu Tôn, Krakucchanda)
    • Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamuni)
    • Phật Ca Diếp (Kasyapa)

3 Vị Phật đắc đạo trước Phật Thích Ca Mâu Ni

Trong Hiền Kiếp này, trước Tất-đạt-đa đã từng có 3 vị Phật ở 3 thời kỳ khác nhau: Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp. Và trong tương lai sẽ là Phật Di Lặc.

(Do đó, ngoài sau Phật Thích Ca, sẽ không thể có một vị Phật nào khác xuất hiện trong hàng triệu năm nữa cho đến khi xuất hiện Phật Thích Ca. Nếu có thành tựu thì có thể là cấp A-la-hán.)

Phật Thích Ca tiên tri về sự xuất hiện Phật Di Lặc trong tương lai

Phật Di Lặc là ai?

Di Lặc (maitreya) là cách phiên âm, dịch nghĩa là Từ Thị (người có lòng nhân từ, hoặc chủng tộc nhân từ).Theo kinh điển Phật giáo, Phật Di Lặc sẽ xuất hiện trên Trái Đất. Ông là người sẽ đạt được giác ngộ hoàn toàn, giảng dạy Phật Pháp, giáo hóa chúng sinh, và chứng ngộ thành Phật. Phật Di Lặc sẽ là vị Phật kế tiếp Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. Cõi giáo hóa của Bồ Tát hiện nay là nội viên của cõi trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Bồ Tát Di-lặc được tiên tri sẽ giáng sinh trong kiếp giảm của tiểu kiếp kế tiếp, khi nhân thọ là 80.000 năm, tức khoảng hàng trăm triệu năm nữa theo năm Trái Đất, khi Phật Pháp đã hoàn toàn bị loài người lãng quên.

Ông xuất hiện trong tài liệu của hầu hết các tông phái Phật giáo. Được chấp nhận bởi hầu hết các Phật tử như là một sự kiện sẽ diễn ra khi Phật Pháp đã bị lãng quên trên Trái Đất. Khi đó Bồ Tát Di Lặc sẽ là bậc giác ngộ Pháp và thuyết lại cho chúng sinh, tương tự như những vị Phật lịch sử đã làm trong quá khứ.

Tiên tri về thời điểm xuất hiện Phật Di Lặc chứng minh điều gì?

Đó là Phật Giáo hiện nay sẽ suy tàn và bị lãng quên. Có thể vì nó đi sai hướng và dần đánh mất niềm tin của loài người.

Nếu năm đức Phật xuất hiện trên Trái Đất được xem là hóa thân của Ngũ Phật thì Bồ Tát Di Lặc được xem như hóa thân của Thành sở tác trí.

Những quan niệm, phỏng đoán về Phật Di Lặc

Có giả thuyết cho rằng, chính Bồ Tát Di-lặc là người khởi xướng hệ phái Duy thức của Đại thừa. Tuy nhiên cần xem lại tiên tri về Phật Di Lặc. Ông ấy xuất hiện khi Phật Giáo đã suy yếu và bị lãng quên. Sau hàng trăm triệu năm nữa. Như vậy không thể là ông ấy khởi xưởng một thế hệ tôn giáo hiện nay. Ngoài ra phương pháp tu, cũng như tư duy của Phật Giáo Đại thừa khá khác biệt với những gì Phật Thích Ca dạy. Những chân lý vốn luôn tồn tại, mà tất cả các đời Phật đều phải nắm bắt giống nhau.

Hình ảnh Phật Di Lặc được tưởng tượng là một người mập mạp, luôn nở nụ cười. Thậm chí được người ta thường gắn hình ảnh ông với tiền vàng, châu báu. Các tượng thường được làm bằng gỗ quý, đá quý,…

Tranh đính đá phật Di Lặc
Tranh đính đá phật Di Lặc

Phật Thích Ca là nguồn cảm hứng nghệ thuật vĩ đại

Phật Thích Ca không những đi vào cuộc sống của nhiều quốc gia. Chẳng hạn hình tượng ông Bụt chính là Đức Phật, theo phiên âm từ tiếng Phạn.

Ngài cũng trở thành chủ đề của Văn học, thi ca, âm nhạc, điện ảnh, hội họa và nhiều trường phái nghệ thuật khác. Trong đó tranh Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ đề được cho ra nhiều sản phẩm nhất. Gần đây nhất là dòng tranh thêu cross stitch (chữ thập) và tranh đính đá Phật Thích Ca Mâu Ni.

Chúng ta nên nhìn nhận về Phật Thích Ca Mâu Ni và pháp tu như thế nào?

Sự khó khăn trong việc tiếp cận “chân Pháp” trong thời kỳ mạt pháp

Sự khó khăn để tiếp cận pháp tu đúng đắn chính là nhiều vô kể. Có những giáo lý “chính thống” lại “không chính xác” vì lý do nào đó. Do vậy tìm được chân pháp trong thời mạt pháp là gần như bất khả thi. Mỗi người tu một kiểu, nghe gì tin nấy. Thậm chí không tin thì cũng không biết nên tin gì.

Nhìn lại về Đức Phật Thích Ca và cách tu của ngài

Xuyên suốt bài viết, về kinh sách, lịch sử cho thấy: Phật Thích Ca Mâu Ni cũng là một con người. Ông là một người đặc biệt, có tư duy vượt qua tất cả loài người. Nhờ việc thiền định đúng cách và lối sống tốt, ông đã hiểu căn nguyên của mọi vấn đề, cũng như cách giải quyết nó. Sau khi có thành tựu, ông đã hoạt động giảng dạy miễn phí như một người thầy vĩ đại của nhân loại. Nhờ đó, ông đã giúp được nhiều người thoát được khổ đau. Do vậy, có thể đúc kết lại những điều sau:

Những đúc kết về tín ngưỡng đạo Phật theo lối “trung tín”.

  • Điều trước tiên, con người chúng ta nên có sự thành kính với một bậc trí tuệ, hiền giả, người thày vĩ đại của nhân loại;
  • Điều thứ hai, con người chúng ta nên tôn trọng mọi sự thật về đức Phật Thích Ca và bảo tồn nó nguyên vẹn (không suy diễn, biến tướng);
  • Điều thứ ba, nếu muốn giải thoát đau khổ, hãy thực hành tu đúng như Phật đã từng;
  • Điều thứ tư, nếu là người phàm, hãy nhìn tranh Phật và tự nhắc nhở bản thân làm những điều thiện, nói lời thiện, suy nghĩ thiện. Bằng không mọi cúng dường đều chỉ là những thứ hối lộ thô bỉ và đáng bị trừng phạt bởi luận nhân quả nghiệp báo;
  • Nếu là một tì kheo, hãy quán tưởng và tỏ lòng tôn kính đến Phật và làm theo những gì Phật đã làm, chỉ cần như vậy là đủ.
  • Có rất nhiều pháp để rèn luyện bản thân như làm việc phước đức, giữ tâm thanh tịnh, ăn chay, trì chú,… đều là các phương pháp để tu luyện bản thân trở thành “Người Tốt Hơn” trong đời. Không phải Người Giác Ngộ (Phật), siêu thoát. Việc giác ngộ nguyên nghĩa là đạt được hiểu biết chân lý (sự thật), không còn sống trong những điều chưa rõ, trong sự giả dối, u mê. Và để đạt được điều đó, cần tập trung thường xuyên vào các “đề mục” cần tự trả lời. Đó là cốt lõi của việc thiền.

– Vô danh Cư sĩ –

#tranhdinhda #phatthichca #phatdan #tranhphat

5/5 - (64 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *